Làm gì khi tài khoản Yahoo "bỗng dưng bị khóa"?

Tin tặc hiện sử dụng rất nhiều phần mềm dò tìm mật khẩu bằng phương pháp thử tuần tự tổ hợp các ký tự. Ví lý do bảo mật, Yahoo chỉ cho phép bạn nhập sai password tối đa 8 lần. Quá số lần trên, account của bạn sẽ được tự động khóa lại và chỉ hoạt động bình thường trở lại 12 giờ đồng hồ sau đó. Lợi dụng tính năng bảo mật này của Yahoo, một số hacker đã viết các chương trình cho phép khóa account Yahoo của bất kỳ ai. Để đối phó, xin giới thiệu 2 cách mở khoá:

1. Án binh bất động: Như đã nói ở trên, tài khoản của bạn chỉ bị khóa tạm thời trong vòng 12 giờ đồng hồ. Do đó bạn không cần phải làm gì cả, sau khoảng thời gian này tài khoản sẽ hoạt động trở lại bình thường.


2. Mở khóa bằng mã kích hoạt được cung cấp sẵn: Bạn hãy truy cập vào địa chỉ http://mail.yahoo.com. Hãy chắc rằng tại dòng Sign-in Mode, chế độ Standard đang được chọn (nếu ở chế độ Secure bạn sẽ không thể mở khóa được). Sau đó bạn nhập vào Yahoo! ID & password của account muốn mở khóa trong các ô tương ứng và bấm nút Sign In.

Cho dù bạn nhập đúng password đi chăng nữa, trang web cũng sẽ báo lỗi “Login Failed. Please use the correct password and type the word you see in the picture below”. Xin hãy bình tĩnh và nhìn xuống phía dưới khung đăng nhập, bạn sẽ thấy xuất hiện thêm một hình có chứa một từ tiếng Anh ngẫu nhiên. Hãy gõ thật chính xác từ này vào ô Word you see below. Kế đến nhập lại ID và password trong các ô tương ứng. Cuối cùng bạn bấm nút Sign In và chờ xem kết quả...

Nếu trang web vào được màn hình Inbox quen thuộc thì xin chúc mừng bạn, account của bạn đã được “giải thoát”. Từ nay bạn có thể sử dụng lại bình thường các dịch vụ của Yahoo! như Yahoo! Mail, Yahoo! Messenger, Yahoo! Photos...

Internet Download Manarger - IDM Các Phiên Bản Từ Mới Đến Cũ

Internet Download Manarger (IDM) là tiện ích giúp tăng tốc độ tải về (download) lên gấp 5 lần, có hỗ trợ tải tiếp tục khi bị gián đoạn (resume) hay cho phép lập lịch trình tải về theo thời gian (schedule downloads). IDM đã đoạt được rất nhiều giải thưởng và hiện có hơn 500,000 người trên toàn thế giới đăng ký sử dụng.
Với Internet Download Manarger (IDM) phiên bản mới (từ 5.12 Build 11 về sau) thì lỗi bị dừng ở 99.9% khi tải về từ các Host miễn phí như Mediafire, 4Shared, Box, .v.v. đã được khắc phục.
Xin xem thêm thông tin chi tiết về phần mềm Internet Download Manarger (IDM) tại trang chủ của hãng : tại đây.

Lần cập nhật gần nhất: ngày 08/12/2009.

Page File là gì? Chống phân mảnh Page File và thiết lập kích thước Page File tối ưu.

Page File (PF) là một file trên ổ cứng, được Windows sử dụng làm bộ nhớ ảo để lưu trữ các chương trình và dữ liệu, khi bộ nhớ vật lý (RAM) không đủ chỗ chứa. Nếu Page File không được cấu hình đúng, bị phân mảnh hay bị virus phá hoại, kích thước Page file quá lớn thì sẽ làm ảnh hưởng tới tốc độ của hệ thống vì phải truy xuất ổ cứng  nhiều (tốc độ  truy xuất bộ nhớ ảo trên ổ cứng chậm hơn nhiều so với truy xuất RAM).
Tuy nhiên, kích thước Page File tăng lên cũng có thể do nhiều yếu tố: cài đặt nhiều phần mềm ứng dụng, các phần mềm lúc khởi động thực hiện các tính toán chiếm nhiều bộ nhớ, chạy các phần mềm có kích thước lớn…

1. Chống phân mảnh Page File và thiết lập kích thước Page File tối ưu:

a. Vào Start, chọn Run, gõ sysdm.cpl. Chọn thẻ Advanced trong cửa sổ System Properties. Nhấn nút Setting trong khung Performance sẽ hiện ra cửa sổ Performance Options. Chọn thẻ Advanced, nhấn nút Change. Trong cửa sổ Virtual Memory hiện ra, chọn “No paging file”. Nhấn nút Set, nhấn Ok và khởi động lại máy.

b. Tiếp theo, chạy chương trình chống phân mảnh ổ cứng để tăng tốc độ truy xuất dữ liệu. Nếu sử dụng Windows XP, bạn có thể sử dụng phần mềm Disk Defragmenter có sẵn trong hệ điều hành. Bạn vào Start, chọn Rundfrg.msc. Bạn chọn ổ cứng cần xử lý và nhấn vào nút “Defragment”.

c. Cấu hình kích thước tối ưu cho Page File: mở cửa sổ Virtual Memory như hướng dẫn ở bước a. Trong Virtual Memory bạn thiết lập Initial size bằng dung lượng RAM của máy, Maximum size bằng 1,5 lần dung lượng RAM. Sau đó nhấn nút Set, nhấn Ok và khởi động lại máy.

2. Gỡ bỏ các phần mềm không cần thiết ra khỏi máy tính.
Nếu sử dụng Windows XP, bạn vào Start, chọn Run, gõ appwiz.cpl. Trong cửa sổ Add or Remove Programs, bạn chọn các phần mềm không thực sự cần thiết và nhấn vào nút “Change/Remove” bên phải để gỡ bỏ.

3. Loại bỏ bớt các phần mềm khởi động cùng Hệ điều hành
Vào Start, chọn Run, gõ msconfig. Chọn thẻ Startup. Trong danh sách Startup, bỏ chọn các phần mềm không cần thiết phải khởi động cùng Windows.

Hình nền tuyệt đẹp cho màn hình PC

Những chiếc ảnh nền (wallpaper) đẹp và có độ phân giải cao sẽ làm cho màn hình máy tính của bạn trông đẹp hơn, sinh động hơn, thu hút hơn, và một phần nào đó giúp cho không khí làm việc thêm thoải mái hơn.

Những chiếc ảnh nền trong các địa chỉ dưới đây thường có nhiều kích cỡ khác nhau, bạn có thể sử dụng cho nhiều loại màn hình khác nhau, từ 15-inch tới 17-inch, 19-inch, 22-inch (màn hình thường hoặc màn hình rộng), thậm chỉ là cả những màn hình LCD lớn tới 32-inch, 45-inch và 55-inch.

Trang web này có tới 80.000 wallpaper khác nhau về nhiều lĩnh vực, từ công nghệ, giải trí tới con người, thiên nhiên, trừu tượng… Ngoài các wallpaper, bạn có thể download từ trang web này công cụ thay đổi nền màn hình tự động để tạo thêm phần sinh động. DesktopNexus khuyến khích người dùng upload các wallpaper đẹp lên trang web để chia sẻ với những người khác.

VladStudio
Nếu muốn tìm những wallpaper trừu tượng thì không đâu thích hợp hơn địa chỉ này. VladStudio có cả những wallpaper dành cho 2 màn hình, 3 màn hình và có nhiều định dạng kích cỡ khác nhau. Những thể loại “trừu tượng” quen thuộc của VladStudio có thể là bản đồ, mặt trăng, các hình tượng… do máy tính tạo ra. Nếu bạn muốn download nhiều ảnh một lúc thì chức năng Zip của trang web này được xem là rất đáng giá.

Nếu bạn đang sử dụng 2 màn hình máy tính cùng lúc (để chơi game, hoặc phục vụ cho các mục đích đặc biệt) thì những chiếc wallpaper dành cho 2 màn hình song song sẽ là một món quà rất đẹp. Trang web này cung cấp nhiều hình nền có độ phân giải khác nhau về nhiều chủ đề: thiên nhiên, động vật, phong cảnh, xe hơi, hành tinh.

Nếu bạn cần kiếm những hình nền “khác người” thì có thể ghé qua địa chỉ trang web này. Nơi đây tập hợp rất nhiều các wallpaper có độ phân giải cực cao về hình ảnh ngoài vũ trụ. Đó đều là các hình ảnh được kính thiên văn vũ trụ ghi lại.

Đây là một trong những trang web “không thể không nhắc tới”. DeviantArt quy tụ nhiều “thiên tài” thiết kế wallpaper và những hình ảnh tuyệt đẹp. Chủ đề wallpaper của DeviantArt rất rộng, và hầu như bạn có thể tìm thấy mọi hình nền tại đây.

Trang web này hấp dẫn người dùng chính ở giao diện trực quan và dễ dùng. Tất nhiên, InterfaceLIFT cũng không thiếu wallpaper đẹp mắt, và có nhiều định dạng kích cỡ khác nhau, từ hình nền dành cho HDTV tới chiếc điện thoại nhỏ xíu của bạn.

Theo Phụng Nghi

K-Lite Codec Pack Full 5.4.0

K-Lite Codec Pack là một bộ sưu tập các codec và bộ lọc DirectShow, chứa đầy đủ mọi thứ bạn cần để chơi tất cả các định dạng file âm thanh và video phổ biến. Gói này là cực kỳ linh hoạt và dễ sử dụng. Phù hợp cho cả người dùng có kinh nghiệm và chuyên môn.

Ngoài ra K-Lite Codec Pack cũng chứa một số codec có thể được dùng để mã hoá, giải mã và thường dùng kết hợp với các phần mềm Audio, Video khác như: Windows Media, Kmp Player, Winamp, ...

Tải về: K-Lite Code Pack Full 5.4.0 (14.2MB)


Công nghệ RAID Dành Cho Server

Trong vài năm trở lại đây, từ chỗ là một thành phần “xa xỉ” chỉ có trên các hệ thống máy tính lớn, máy trạm, máy chủ, RAID đã được đưa vào các máy tính để bàn dưới dạng tích hợp đơn giản. Tuy nhiên, có thể người mua biết bo mạch chủ (BMC) của mình có công nghệ RAID nhưng không phải ai cũng biết cách sử dụng hiệu quả. Bài viết này giới thiệu thông tin cơ bản về RAID cũng như một vài kinh nghiệm sử dụng để tăng sức mạnh cho PC.

RAID LÀ GÌ?
RAID là chữ viết tắt của Redundant Array of Independent Disks. Ban đầu, RAID được sử dụng như một giải pháp phòng hộ vì nó cho phép ghi dữ liệu lên nhiều đĩa cứng cùng lúc. Về sau, RAID đã có nhiều biến thể cho phép không chỉ đảm bảo an toàn dữ liệu mà còn giúp gia tăng đáng kể tốc độ truy xuất dữ liệu từ đĩa cứng. Dưới đây là năm loại RAID được dùng phổ biến:

1. RAID 0
Đây là dạng RAID đang được người dùng ưa thích do khả năng nâng cao hiệu suất trao đổi dữ liệu của đĩa cứng. Đòi hỏi tối thiểu hai đĩa cứng, RAID 0 cho phép máy tính ghi dữ liệu lên chúng theo một phương thức đặc biệt được gọi là Striping. Ví dụ bạn có 8 đoạn dữ liệu được đánh số từ 1 đến 8, các đoạn đánh số lẻ (1,3,5,7) sẽ được ghi lên đĩa cứng đầu tiên và các đoạn đánh số chẵn (2,4,6,8) sẽ được ghi lên đĩa thứ hai. Để đơn giản hơn, bạn có thể hình dung mình có 100MB dữ liệu và thay vì dồn 100MB vào một đĩa cứng duy nhất, RAID 0 sẽ giúp dồn 50MB vào mỗi đĩa cứng riêng giúp giảm một nửa thời gian làm việc theo lý thuyết. Từ đó bạn có thể dễ dàng suy ra nếu có 4, 8 hay nhiều đĩa cứng hơn nữa thì tốc độ sẽ càng cao hơn. Tuy nghe có vẻ hấp dẫn nhưng trên thực tế, RAID 0 vẫn ẩn chứa nguy cơ mất dữ liệu. Nguyên nhân chính lại nằm ở cách ghi thông tin xé lẻ vì như vậy dữ liệu không nằm hoàn toàn ở một đĩa cứng nào và mỗi khi cần truy xuất thông tin (ví dụ một file nào đó), máy tính sẽ phải tổng hợp từ các đĩa cứng. Nếu một đĩa cứng gặp trục trặc thì thông tin (file) đó coi như không thể đọc được và mất luôn. Thật may mắn là với công nghệ hiện đại, sản phẩm phần cứng khá bền nên những trường hợp mất dữ liệu như vậy xảy ra không nhiều.
Có thể thấy RAID 0 thực sự thích hợp cho những người dùng cần truy cập nhanh khối lượng dữ liệu lớn, ví dụ các game thủ hoặc những người chuyên làm đồ hoạ, video số.
RAID 0 chắc chắn là lựa chọn đem lại tốc độ cao nhất nhưng cũng là thứ mong manh nhất. Ví dụ bạn sử dụng 4 đĩa cứng ở RAID 0 thì tốc độ truyền dữ liệu có thể lên tới hơn 100MB/s.
Tuy thế khả năng mất dữ liệu cũng tăng tỉ lệ lên 4 lần.
Ngoài ra, trục trặc điện lưới hay lỗi phần điều khiển cũng có thể dẫn tới thảm họa. Vì vậy, không nên sử dụng RAID 0 để lưu trữ dữ liệu lâu dài nhưng nó lại là lựa chọn số một cho các ổ đĩa tạm cần tốc độ cao, ví dụ lưu trữ cơ sở dữ liệu
web. Và nếu bạn định sử dụng lâu dài, hãy thêm một vài ổ cứng và chuyển sang hệ thống RAID 0+1. Điều đó thực sự lý tưởng nếu có nguồn tài chính dồi dào.



2. RAID 1
Đây là dạng RAID cơ bản nhất có khả năng đảm bảo an toàn dữ liệu. Cũng giống như RAID 0, RAID 1 đòi hỏi ít nhất hai đĩa cứng để làm việc. Dữ liệu được ghi vào 2 ổ giống hệt nhau (Mirroring). Trong trường hợp một ổ bị trục trặc, ổ còn lại sẽ tiếp tục hoạt động bình thường. Bạn có thể thay thế ổ đĩa bị hỏng mà không phải lo lắng đến vấn đề thông tin thất lạc. Đối với RAID 1, hiệu năng không phải là yếu tố hàng đầu nên chẳng có gì ngạc nhiên nếu nó không phải là lựa chọn số một cho những người say mê tốc độ. Tuy nhiên đối với những nhà quản trị mạng hoặc những ai phải quản lý nhiều thông tin quan trọng thì hệ thống RAID 1 là thứ không thể thiếu. Dung lượng cuối cùng của hệ thống RAID 1 bằng dung lượng của ổ đơn (hai ổ 80GB chạy RAID 1 sẽ cho hệ thống nhìn thấy duy nhất một ổ RAID 80GB).
Người dùng thông thường có thể không thấy hứng thú với RAID 1, ngoại trừ những ai phải lưu trữ và quản lý những tài liệu thực sự quan trọng như các máy chủ lưu thông tin khách hàng hoặc tài khoản. Nếu dùng RAID 1, bạn nên cân nhắc bổ sung thêm các khay tráo đổi nóng vì sẽ giúp phục hồi dữ liệu nhanh chóng hơn (bạn có thể tháo lắp ổ và tiến hành tạo bản sao sang ổ mới bổ sung trong khi hệ thống đang làm việc bình thường).

3. RAID 0+1
Có bao giờ bạn ao ước một hệ thống lưu trữ nhanh nhẹn như RAID 0, an toàn như RAID 1 hay chưa? Chắc chắn là có và hiển nhiên ước muốn đó không chỉ của riêng bạn. Chính vì thế mà hệ thống RAID kết hợp 0+1 đã ra đời, tổng hợp ưu điểm của cả hai “đàn anh”. Tuy nhiên chi phí cho một hệ thống kiểu này khá đắt, bạn sẽ cần tối thiểu 4 đĩa cứng để chạy RAID 0+1. Dữ liệu sẽ được ghi đồng thời lên 4 đĩa cứng với 2 ổ dạng Striping tăng tốc và 2 ổ dạng Mirroring sao lưu. 4 ổ đĩa này phải giống hệt nhau và khi đưa vào hệ thống RAID 0+1, dung lượng cuối cùng sẽ bằng ½ tổng dung lượng 4 ổ, ví dụ bạn chạy 4 ổ 80GB thì lượng dữ liệu “thấy được” là (4*80)/2 = 160GB.

4. RAID 5
Đây có lẽ là dạng RAID mạnh mẽ nhất cho người dùng văn phòng và gia đình với 3 hoặc 5 đĩa cứng riêng biệt. Dữ liệu và bản sao lưu được chia lên tất cả các ổ cứng. Nguyên tắc này khá rối rắm. Chúng ta quay trở lại ví dụ về 8 đoạn dữ liệu (1-8) và giờ đây là 3 ổ đĩa cứng. Đoạn dữ liệu số 1 và số 2 sẽ được ghi vào ổ đĩa 1 và 2 riêng rẽ, đoạn sao lưu của chúng được ghi vào ổ cứng 3. Đoạn số 3 và 4 được ghi vào ổ 1 và 3 với đoạn sao lưu tương ứng ghi vào ổ đĩa 2. Đoạn số 5, 6 ghi vào ổ đĩa 2 và 3, còn đoạn sao lưu được ghi vào ổ đĩa 1 và sau đó trình tự này lặp lại, đoạn số 7,8 được ghi vào ổ 1, 2 và đoạn sao lưu ghi vào ổ 3 như ban đầu. Như vậy RAID 5 vừa đảm bảo tốc độ có cải thiện, vừa giữ được tính an toàn cao. Dung lượng đĩa cứng cuối cùng bằng tổng dung lượng đĩa sử dụng trừ đi một ổ. Tức là nếu bạn dùng 3 ổ 80GB thì dung lượng cuối cùng sẽ là 160GB.
RAID 5 vào thời điểm hiện tại đang là lựa chọn số 1 cho mọi loại hình máy tính nhờ khả năng vừa sửa lỗi vừa tăng tốc. Nếu bạn dự kiến xây dựng một hệ thống RAID từ 4 đĩa cứng trở lên thì RAID 5 chắc chắn là giải pháp tối ưu



5. JBOD
JBOD (Just a Bunch Of Disks) thực tế không phải là một dạng RAID chính thống, nhưng lại có một số đặc điểm liên quan tới RAID và được đa số các thiết bị điều khiển RAID hỗ trợ. JBOD cho phép bạn gắn bao nhiêu ổ đĩa tùy thích vào bộ điều khiển RAID của mình (dĩ nhiên là trong giới hạn cổng cho phép). Sau đó chúng sẽ được “tổng hợp” lại thành một đĩa cứng lớn hơn cho hệ thống sử dụng. Ví dụ bạn cắm vào đó các ổ 10GB, 20GB, 30GB thì thông qua bộ điều khiển RAID có hỗ trợ JBOD, máy tính sẽ nhận ra một ổ đĩa 60GB. Tuy nhiên, lưu ý là JBOD không hề đem lại bất cứ một giá trị phụ trội nào khác: không cải thiện về hiệu năng, không mang lại giải pháp an toàn dữ liệu, chỉ là kết nối và tổng hợp dung lượng mà thôi.

TỔNG KẾT
Giá trị mà RAID mang lại cho hệ thống là không thể phủ nhận - sự an toàn, hiệu năng cao hơn tùy cấu hình. Thực tế cho thấy RAID 0 và 0+1 được ưa chuộng nhất trong môi trường gia đình. RAID 0 nhanh nhất nhưng cũng nguy hiểm nhất, chỉ cần một trục trặc là coi như mọi chuyện chấm dứt. Trong khi đó RAID 1 mặc dù đem lại khả năng bảo đảm an toàn thông tin nhất nhưng cũng thường đem lại cho người dùng cảm giác lãng phí (chi tiền cho 2 ổ cứng mà hiệu năng và dung lượng chỉ được 1). RAID 5 đem lại hiệu năng cũng như độ an toàn cao nhưng thiết bị điều khiển thường khá đắt, đó là chưa kể đến số tiền chi cho ổ cứng cũng nhiều hơn nên ít người quan tâm trừ khi công việc cần đến

6. Một số loại RAID khác
Ngoài các loại được đề cập ở trên, bạn còn có thể bắt gặp nhiều loại RAID khác nhưng chúng không được sử dụng rộng rãi mà chỉ giới hạn trong các hệ thống máy tính phục vụ mục đích riêng, có thể kể như: Level 2 (Error-Correcting Coding), Level 3 (Bit-Interleaved Parity), Level 4 (Dedicated Parity Drive), Level 6 (Independent Data Disks with Double Parity), Level 10 (Stripe of Mirrors, ngược lại với RAID 0+1), Level 7 (thương hiệu của tập đoàn Storage Computer, cho phép thêm bộ đệm cho RAID 3 và 4), RAID S (phát minh của tập đoàn EMC và được sử dụng trong các hệ thống lưu trữ Symmetrix của họ). Bên cạnh đó còn một số biến thể khác, ví dụ như Intel Matrix Storage cho phép chạy kiểu RAID 0+1 với chỉ 2 ổ cứng hoặc RAID 1.5 của DFI trên các hệ BMC 865, 875. Chúng tuy có nhiều điểm khác biệt nhưng đa phần đều là bản cải tiến của các phương thức RAID truyền thống.

BẠN CẦN GÌ ĐỂ CHẠY RAID?
Để chạy được RAID, bạn cần tối thiểu một card điều khiển và hai ổ đĩa cứng giống nhau. Đĩa cứng có thể ở bất cứ chuẩn nào, từ ATA, Serial ATA hay SCSI, tốt nhất chúng nên hoàn toàn giống nhau vì một nguyên tắc đơn giản là khi hoạt động ở chế độ đồng bộ như RAID, hiệu năng chung của cả hệ thống sẽ bị kéo xuống theo ổ thấp nhất nếu có. Ví dụ khi bạn bắt ổ 160GB chạy RAID với ổ 40GB (bất kể 0 hay 1) thì coi như bạn đã lãng phí 120GB vô ích vì hệ thống điều khiển chỉ coi chúng là một cặp hai ổ cứng 40GB mà thôi (ngoại trừ trường hợp JBOD như đã đề cập). Yếu tố quyết định tới số lượng ổ đĩa chính là kiểu RAID mà bạn định chạy. Chuẩn giao tiếp không quan trọng lắm, đặc biệt là giữa SATA và ATA. Một số BMC đời mới cho phép chạy RAID theo kiểu trộn lẫn cả hai giao tiếp này với nhau. Điển hình như MSI K8N Neo2 Platinum hay dòng DFI Lanparty NForce4.
Bộ điều khiển RAID (RAID Controller) là nơi tập trung các cáp dữ liệu nối các đĩa cứng trong hệ thống RAID và nó xử lý toàn bộ dữ liệu đi qua đó. Bộ điều khiển này có nhiều dạng khác nhau, từ card tách rời cho dến chip tích hợp trên BMC.
Đối với các hệ thống PC, tuy chưa phổ biến nhưng việc chọn mua BMC có RAID tích hợp là điều nên làm vì nói chung đây là một trong những giải pháp cải thiện hiệu năng hệ thống rõ rệt và rẻ tiền nhất, chưa tính tới giá trị an toàn dữ liệu của chúng. Trong trường hợp BMC không có RAID, bạn vẫn có thể mua được card điều khiển PCI trên thị trường với giá không cao lắm.
Một thành phần khác của hệ thống RAID không bắt buộc phải có nhưng đôi khi là hữu dụng, đó là các khay hoán đổi nóng ổ đĩa. Nó cho phép bạn thay các đĩa cứng gặp trục trặc trong khi hệ thống đang hoạt động mà không phải tắt máy (chỉ đơn giản là mở khóa, rút ổ ra và cắm ổ mới vào). Thiết bị này thường sử dụng với ổ cứng SCSI và khá quan trọng đối với các hệ thống máy chủ vốn yêu cầu hoạt động liên tục.
Về phần mềm thì khá đơn giản vì hầu hết các hệ điều hành hiện đại đều hỗ trợ RAID rất tốt, đặc biệt là Microsoft Windows. Nếu bạn sử dụng Windows XP thì bổ sung RAID khá dễ dàng. Quan trọng nhất là trình điều khiển nhưng thật tuyệt khi chúng đã được kèm sẵn với thiết bị. Việc cài đặt RAID có thể gây một vài rắc rối nếu bạn thiếu kinh nghiệm nhưng vẫn có hướng giải quyết trong phần sau của bài viết.
Có hai trường hợp sẽ xảy ra khi người dung nâng cấp RAID cho hệ thống. Nếu hệ thống RAID bổ sung chỉ được dùng với mục đích lưu trữ hoặc làm nơi trao đổi thông tin tốc độ cao thì việc cài đặt rất đơn giản. Tuy nhiên nếu bạn dự định dùng nó làm nơi cài hệ điều hành, phần mềm thì sẽ rất rắc rối và phải cài đặt lại toàn bộ từ con số 0.

RAID CHO RIÊNG MÌNH

1. Chọn kiểu RAID
Vậy là bạn đã quyết tâm nâng cấp hệ thống của mình lên tầm cao mới. Nhưng chọn lựa kiểu RAID phù hợp không hẳn đã đơn giản như bạn nghĩ. Với điều kiện tại Việt , bạn có thể chọn một số giải pháp RAID bao gồm 0, 1, 0+1 và 5. Trong đó RAID 0, 1 là kinh tế nhất và thường có trên hầu hết các dòng BMC hiện tại. Kiểu RAID 0+1 và 5 thường chỉ có trên những loại cao cấp, đắt tiền.
RAID 0 chắc chắn là lựa chọn đem lại tốc độ cao nhất nhưng cũng là thứ mong manh nhất. Ví dụ bạn sử dụng 4 đĩa cứng ở RAID 0 thì tốc độ truyền dữ liệu có thể lên tới hơn 100MB/s. Đây là con số hết sức hấp dẫn với bất kì người dùng PC nào. Tuy thế khả năng mất dữ liệu cũng tăng tỉ lệ lên 4 lần. Đĩa cứng máy tính là một sản phẩm máy móc có chuyển động và sẽ bị “lão hóa” dần sau thời gian dài sử dụng (thật may là thời gian đĩa cứng lão hóa khá dài). Ngoài ra, trục trặc điện lưới hay lỗi phần điều khiển cũng có thể dẫn tới thảm họa. Vì vậy, không nên sử dụng RAID 0 để lưu trữ dữ liệu lâu dài nhưng nó lại là lựa chọn số một cho các ổ đĩa tạm cần tốc độ cao, ví dụ lưu trữ cơ sở dữ liệu web. Và nếu bạn định sử dụng lâu dài, hãy thêm một vài ổ cứng và chuyển sang hệ thống RAID 0+1. Điều đó thực sự lý tưởng nếu có nguồn tài chính dồi dào.
RAID 1 nếu chạy một mình sẽ không có tác dụng gì ngoài chuyện tạo thêm một ổ đĩa nữa giống hệt như ổ chính. Người dùng thông thường có thể không thấy hứng thú với RAID 1, ngoại trừ những ai phải lưu trữ và quản lý những tài liệu thực sự quan trọng như các máy chủ lưu thông tin khách hàng hoặc tài khoản. Nếu dùng RAID 1, bạn nên cân nhắc bổ sung thêm các khay tráo đổi nóng vì sẽ giúp phục hồi dữ liệu nhanh chóng hơn (bạn có thể tháo lắp ổ và tiến hành tạo bản sao sang ổ mới bổ sung trong khi hệ thống đang làm việc bình thường).

RAID 5 vào thời điểm hiện tại đang là lựa chọn số 1 cho mọi loại hình máy tính nhờ khả năng vừa sửa lỗi vừa tăng tốc. Nếu bạn dự kiến xây dựng một hệ thống RAID từ 4 đĩa cứng trở lên thì RAID 5 chắc chắn là giải pháp tối ưu.
Các loại RAID kết hợp, ví dụ RAID 0+1 hay RAID 50 (5+0) thường cho những đặc điểm của các kiểu RAID thành phần, tuy nhiên bạn nên cân nhắc và chỉ sử dụng nếu cần thiết vì chi phí cho linh kiện khá cao. Chúng ta có thể tổng kết lại như trong bảng.

2. Chọn lựa phần cứng
Việc đầu tiên là chọn lựa linh kiện phù hợp. Về chipset điều khiển RAID, bạn không có nhiều lựa chọn vì cơ bản chúng được tích hợp trên BMC. Tuy nhiên bạn cần chú ý những điểm sau.
Hiện tại bộ điều khiển RAID tích hợp thường gồm hai loại chính: chip điều khiển gắn lên BMC hoặc hỗ trợ sẵn từ trong chipset. Thông dụng gồm:
Chipset tích hợp:
+ Intel ICH5R, ICH6, ICH7. Những chipset cầu nam (SouthBridge) này đi kèm với dòng i865/875/915/925/945/955.
+ nVIDIA nForce2-RAID (AMD), nForce 3 Series (AMD A64), nForce 4 Series (AMD A64/ Intel 775).
Chip điều khiển bên ngoài: Có khá nhiều chủng loại của các hãng khác nhau như Promise Technology, Silicon Image, Adaptec, nhưng thường thấy nhất là hai dòng Silicon Image Sil3112 và 3114.
Những loại được tích hợp trong chip cầu nam thường có độ trễ thấp, dễ sử dụng. Tuy nhiên tính năng thường không nhiều và phần mềm còn hạn chế, đôi khi “lạm dụng” tài nguyên hệ thống cho tác vụ đọc/ghi. Các loại sử dụng chip của hãng thứ ba thì độ trễ thường cao hơn (không đáng kể), phần mềm và tính năng có phần phong phú hơn, sử dụng tối thiểu tài nguyên; các loại card rời thì dễ thay đổi, tháo lắp khi cần thiết. Tuy vậy bạn cần chú ý một điều cực kì quan trọng là loại Silicon Image Sil3112 có tính tương thích tương đối kém, do đó khi chuyển sang các hệ RAID khác có thể bị mất dữ liệu. Sil3114 và cao hơn đã khắc phục được lỗi này. Các hệ nForce và ICH5,6,7 có thể trao đổi ổ cứng qua lại dễ dàng, BIOS RAID của chúng cũng thông minh hơn và thường có khả năng nhận diện những nhóm ổ cứng RAID định dạng sẵn.
Một số BMC mới nhất ví dụ như DFI Lanparty NF4 SLI-DR có hỗ trợ cả RAID 5. Về giao tiếp dành cho máy tính để bàn, thông thường bạn chỉ tìm thấy các loại PATA hoặc SATA và vì phải sử dụng nhiều cáp, SATA sẽ là lựa chọn sáng suốt hơn ngay cả khi không tính đến tốc độ nhanh hơn và nhiều cải tiến công nghệ. Nếu dồi dào về tài chính, bạn có thể để mắt đến một số sản phẩm tương đối chuyên nghiệp cho phép cắm thêm RAM để dùng như bộ đệm cực lớn nhằm tăng tốc độ đáng kể.
Về ổ cứng thì bạn nên chọn các loại có khả năng truyền dữ liệu lớn và tốc độ truy xuất nhanh. Tốc độ truy xuất (Access Time) chỉ định thời gian cần thiết để đĩa cứng tìm thấy dữ liệu cần dùng và thông số này càng nhỏ càng tốt. Ngoài ra ổ cứng cũng nên có bộ đệm lớn (8MB trở lên), một số model mới có dung lượng bộ đệm 16MB và những công nghệ cho phép tăng hiệu năng làm việc đáng kể (như Seagate NCQ chẳng hạn). Tốt nhất các ổ cứng nên giống nhau vì RAID sẽ bị ảnh hưởng nếu có ổ đĩa chậm chạp hoặc dung lượng bé theo đúng tiêu chí “con sâu làm rầu nồi canh”.

3. Cài đặt RAID
Việc cài đặt RAID nói chung chủ yếu dựa vào BIOS của mainboard, RAID Controller và hầu như không có gì khó khăn.
Sau khi đã cắm ổ cứng vào đúng vị trí RAID trên bo mạch (tham khảo tài liệu đi kèm sản phẩm), bạn vào BIOS của BMC để bật bộ điều khiển RAID và chỉ định các cổng liên quan (thường trong mục Integrated Peripherals).
Sau thao tác này, bạn sẽ lưu thông số rồi khởi động lại máy tính. Chú ý thật kĩ màn hình thông báo và nhấn đúng tổ hợp phím khi máy tính yêu cầu (có thể là Ctrl+F hoặc F4 tùy bộ điều khiển RAID) để vào BIOS RAID.
Đối với BIOS RAID, mặc dù mỗi loại có một giao diện khác nhau (tham khảo tài liệu đi kèm) nhưng về cơ bản bạn phải thực hiện những thao tác sau:
+ Chỉ định những ổ cứng sẽ tham gia RAID.
+ Chọn kiểu RAID (0/1/0+1/5).
+ Chỉ định Block Size: Đây là chìa khóa ảnh hưởng rất lớn tới hiệu năng của giàn ổ cứng chạy RAID. Đối với RAID dạng Striping, Block size cũng có nghĩa là Stripe Size. Nếu thông số này thiết lập không phù hợp với nhu cầu sử dụng thì sẽ gây lãng phí bộ nhớ và giảm hiệu năng. Ví dụ nếu Block Size có giá trị là 64KB thì tối thiểu sẽ có 64KB được ghi vào ổ đĩa trong mọi trường hợp, ngay cả khi đó là một file text có dung lượng 2KB. Vì thế giá trị này nên xấp xỉ tương ứng với kích thước trung bình của các file bạn dùng. Nếu ổ cứng chứa nhiều file nhỏ ví dụ tài liệu Word, bạn nên để block size bé, nếu chứa nhiều phim ảnh hoặc nhạc, block size lớn sẽ cho hiệu năng cao hơn (nhất là với hệ thống RAID 0).
Bên cạnh đó, Block size còn có một chức năng khác quyết định việc file sẽ được ghi vào đâu. Quay về với ví dụ Block Size 64KB, nếu như file có kích thước nhỏ hơn 64KB, nó sẽ chỉ được ghi vào một ổ cứng trong hệ thống RAID và như vậy sẽ không có bất cứ sự cải thiện hiệu năng nào. Trong một trường hợp khác, một file có kích thước 150KB sẽ được ghi vào 3 ổ đĩa với các đoạn 64KB + 64KB + 22KB và bộ điều khiển có thể đọc thông tin từ ba ổ cùng lúc cho phép tăng tốc đáng kể. Nếu bạn chọn block size là 128KB thì file đó chỉ được ghi vào 2 ổ 128KB + 22KB mà thôi. Thực tế bạn nên chọn Block Size là 128KB cho các máy tính để bàn trừ khi có nhu cầu riêng.
Sau khi bộ điều khiển đã nhận biết hoàn hảo hệ đĩa cứng mới, bạn tiến hành cài đặt hệ điều hành cũng như format ổ RAID. Windows XP là một lựa chọn sáng suốt.
Việc cài đặt Windows nói chung cũng giống như bình thường nhưng bạn cần chuẩn bị một ổ đĩa mềm và đĩa mềm chứa trình điều khiển (driver) cho bộ điều khiển RAID. Ngay sau khi nhấn bàn phím để vào cài đặt, bạn phải chú ý dòng chữ phía dưới màn hình cài Windows để nhấn F6 kịp lúc. Sau đó chờ một lát và khi được hỏi, bạn nhấn S để đưa driver RAID vào cài đặt.
Các bước còn lại, bạn thao tác đúng như với việc cài đặt trên một đĩa cứng bình thường.
Sau khi đã ổn định được hệ thống, bạn chú ý cài thêm những tiện ích điều khiển hệ thống RAID để tận dụng các tính năng mở rộng và đôi khi là cả hiệu năng nữa. Có thể liệt kê một số chương trình như Intel Application Acceleration RAID Edition hay nVIDIA RAID Manager...

Chú ý chung:
Nếu bạn đang có một ổ đĩa đầy dữ liệu và muốn thiết lập RAID 0, bạn phải format ổ và làm lại mọi thứ. Vì thế hãy tìm cho mình một phương án sao lưu phù hợp. Nếu sử dụng RAID 1 thì việc này không cần thiết.
Thông thường với một hệ thống RAID 0 bạn nên có thêm một ổ cứng nhỏ để lưu những thứ tối quan trọng phòng khi có trục trặc mặc dù rất khó xảy ra.
Khi máy tính khởi động lại (đặc biệt là khi bị khởi động bất thường), có thể hệ thống sẽ dừng lại khá lâu ở quá trình bộ điều khiển RAID nhận diện các ổ đĩa, thậm chí có thể có nhiều tiếng động lạ phát ra ở phần cơ đĩa cứng. Bạn không phải lo lắng vì điều này hoàn toàn bình thường do bộ điều khiển phải đồng bộ hoạt động của tất các ổ trong nhóm RAID mà nó quản lý.
Các nhóm đĩa cứng RAID thường gồm vài ổ đĩa cứng hoạt động cạnh nhau nên nhiệt lượng tỏa ra khá lớn, không có lợi về lâu dài. Bạn hãy tìm giải pháp giải nhiệt nếu có điều kiện để tránh rắc rối ngoài ý muốn.



TỔNG KẾT
Giá trị mà RAID mang lại cho hệ thống là không thể phủ nhận - sự an toàn, hiệu năng cao hơn tùy cấu hình. Thực tế cho thấy RAID 0 và 0+1 được ưa chuộng nhất trong môi trường gia đình. RAID 0 nhanh nhất nhưng cũng nguy hiểm nhất, chỉ cần một trục trặc là coi như mọi chuyện chấm dứt. Trong khi đó RAID 1 mặc dù đem lại khả năng bảo đảm an toàn thông tin nhất nhưng cũng thường đem lại cho người dùng cảm giác lãng phí (chi tiền cho 2 ổ cứng mà hiệu năng và dung lượng chỉ được 1). RAID 5 đem lại hiệu năng cũng như độ an toàn cao nhưng thiết bị điều khiển thường khá đắt, đó là chưa kể đến số tiền chi cho ổ cứng cũng nhiều hơn nên ít người quan tâm trừ khi công việc cần đến. Chính vì thế, một số người dùng lại quay sang hướng sử dụng các ổ đĩa SCSI để giải quyết vấn đề hiệu năng/an toàn thông tin, tuy nhiên chi phí cho một hệ thống SCSI loại tốt có thể còn đắt hơn nữa.
Nếu để ý kĩ hơn, chúng ta sẽ thấy chuẩn IDE có nhiều vấn đề ví dụ các ổ đĩa không được thiết kế để chạy liên tục (rất quan trọng đối với các hệ thống máy chủ), dây cáp ATA hiện tại còn quá cồng kềnh nên khi sử dụng nhiều ổ đĩa sẽ dẫn tới hiện tượng chật kín case và trong trường hợp xấu nhất, nhiệt lượng tỏa ra sẽ dẫn tới trục trặc hệ thống. Nhưng với công nghệ ngày càng phát triển và những chuẩn mới như SATA ra đời, chắc chắn RAID sẽ có một tương lai tươi sáng và trở thành người bạn đồng hành lý tưởng cho các hệ thống máy tính cá nhân cao cấp.

TMDIT (Sưu tập từ Internet)

Kiểm tra số phiên bản chi tiết, số bit (32bit hay 64bit) của hệ điều hành Windows trên hệ thống

Để biết hệ thống của bạn đang sử dụng hệ điều hành Windows với phiên bản là gì, số phiên bản cụ thể đã cập nhật đến số bao nhiêu, là Windows 32 bit hay 64 bit? Bạn có thể thực hiện như sau:

Với Windows 7 hay Windows Vista
  • Vào menu Start, trong hộp Start Search nhập system rồi click vào System Information trong danh sách Programs.
  • Sau khi lựa chọn System Summary trong bảng System Information, trên cửa sổ bên phải, cột ItemValue sẽ cho bạn biết về thông tin hệ thống:
Nếu System Type bạn thấy dòng chữ x64-based PC thì hệ điều hành đang sử dụng là phiên bản 64 bit. Còn thấy x86-based PC thì hệ điều hành đang sử dụng là phiên bản 32 bit Số phiên bản của hệ điều hành xem ở mục Version. Số phiên bản chi tiết xem ở mục: Hardware Abstraction Layer

Với hệ điều hành Windows XP hay Windows Server 2003
  • Vào Start -> Run. Nhập winmsd.exe rồi nhấn OK.
  • Sau đó bạn sẽ thấy cửa sổ System Information hiện ra, chọn System Summary.
Nếu giá trị của Processor bắt đầu với x86 thì hệ thống của bạn đang sử dụng phiên bản hệ điều hành Windows 32 bit. Nếu giá trị của Processor bắt đầu với ia64 hay EM64T thì hệ thống của bạn đang sử dụng phiên bản Windows 64 bit. Số phiên bản của hệ điều hành xem ở mục Version. Số phiên bản chi tiết xem ở mục: Hardware Abstraction Layer

Lưu ý
: Để kiểm tra hệ thống phần cứng trên máy của bạn là 32bit hay 64bit bạn cần phải xem tài liệu thông số kỹ thuật đi kèm theo máy.

Winrar 3.9 Pro - "Thích hợp" cho Windows XP, Windows Server, Windows Vista và Windows 7

Phần mềm chạy trên hệ điều hành Windows dùng để nén và giải nén file, folder. File nén và giải nén chủ lực là dạng RAR. Ngoài ra cũng hỗ trợ nhiều định dạng nén khác. Đặc biệt phiên bản này "thích hợp" cho nhiều loại Windows như: Windows XP, Windows Server, Windows Vista và Windows 7 chứ không như những anh trước khi cài cho Windows Vista hay Windows 7 thì không thể nào cr... được.
Lưu ý: Chương trình Winrar 3.9 Pro được nén bằng Winrar (do có nhiều file). Nếu máy của bạn chưa có chương trình giải nén thì có thể dùng tạm bản Winrar 3.7 (Trial) tại đây để cài và giải nén cho gói  cài Winrar 3.9 Pro.

Cách gắn cáp IDE cho ổ cứng, ổ CD

Ổ đĩa cứng giao diện ATAPI/IDE hiện nay phổ biến nhất là loại có tốc độ truyền tải dữ liệu UltraATA/100 (100 MB/s). Loại UltraATA/66 (66 MB/s) đã rất hiếm. Còn loại UltraATA/133 (133 MB/s) thì thuộc loại “lỡ bước sang ngang” chỉ có một mình Maxtor tự biên tự diễn. Riêng chuẩn UltraATA/33 (33 MB/s) giờ đây chỉ còn ở các ổ đĩa quang (CD-ROM, DVD-ROM, CD-RW,...).
Tuy cùng sử dụng giao diện cắm 40 chân (pin), cáp UltraATA/33 chỉ có 40 sợi dây, trong khi cáp từ UltraATA/66 trở lên có tới 80 sợi dây (trong đó có tới 40 dây đất được giải thích để tăng khả năng chống nhiễu và tăng tốc độ truyền tải cũng như độ ổn định, an toàn cho dữ liệu).


Trong ảnh : Cáp UltraATA/66 trở lên.

Cáp ATA/33 (40 sợi) đời cũ không phân biệt đầu cắm nào là Master hay Slave. Còn cáp ATA/66 trở lên (80 sợi) có màu sắc riêng cho từng chế độ thiết bị IDE. Đầu màu xanh (tức đầu cuối cáp cách đầu giữa cáp dài nhất) là để gắn vào socket IDE trên mainboard. Đầu cắm màu đen (ở đầu cáp kia) để gắn vào ổ IDE Master. Đầu cắm màu xám (ở giữa) là cho ổ IDE Slave.

Những ổ ghi đĩa CD đời cũ có thể không hoạt động chính xác nếu gắn vào cáp 80 sợi. Các ổ ghi đời mới có thể gắn vào cáp 80 sợi, nhưng cũng chỉ chạy theo chuẩn ATA/33 mà thôi.
Những điều lưu ý :
  • Xem kỹ tài liệu hướng dẫn của ổ ghi đĩa để biết nó được nhà sản xuất tối ưu hóa ở chế độ nào (master hay slave).
  • Không nên gắn ổ đĩa quang (CD-ROM/DVD-ROM/CD-RW) chung một cáp với ổ đĩa cứng vì sẽ kéo chậm tốc độ của đĩa cứng. Giống như một cỗ xe được kéo bởi 1 bên bò, 1 bên ngựa.

Trong ảnh : Sơ đồ một cấu 1 HHD và 1 ổ CD-ROM.
  • Khi gắn chung hai ổ ghi đĩa CD-RW và ổ đọc đĩa CD-ROM/DVD-ROM chung một cáp, nên cho ổ CD-RW ở chế độ Slave.

Trong ảnh : Sơ đồ một cấu hình IDE chuẩn.
  • Khi hệ thống chỉ có một ổ đĩa quang, nên cho nó hưởng cái chế độ Master ở cáp IDE thứ cấp Secondary.

Trong ảnh : Sơ đồ gắn các thiết bị IDE vào bo mạch chủ.


PHẠM HỒNG PHUỚC (A. P.)

Nguồn: PhamHongPhuoc

Giải quyết lỗi “Setup did not find any hard disk drives” khi cài Windows XP

Một trong những lỗi thường gặp khi cài đặt mới Windows XP là thông báo “Setup did not find any hard disk drives(Không tìm thấy ổ cứng trên máy tính) và nó khiến bạn bối rối vì rõ ràng là máy tính có ổ cứng, thậm chí bạn đã tiến hành format ổ một cách cẩn thận.

Lỗi này thường xảy trên một máy tính mới bởi driver ổ của máy chưa đặt về chế độ hỗ trợ XP, thường là điều khiển SATA (Serial ATA)

Nếu không có ổ đĩa mềm trên máy tính (thường thì những máy tính hiện nay không còn sử dụng ổ này) thì bạn sẽ cần phải sử dụng một quá trình gọi là Slip-streaming – tích hợp sẵn driver ổ vào đĩa CD cài đặt Windows XP.

Tìm kiếm Driver cho XP

Nơi tốt nhất để có thể tìm driver là trên chính website của hãng phần cứng mà bạn đang sử dụng. Chúng ta có thể sử dụng chương trình WinImage. Với ví dụ sau, bạn sẽ thấy đường dẫn download cho Intel SATA controller driver cho máy tính HP

Download và chạy file thực thi để giải nén một file với tên gọi f6flpy32.exe vào thư mục tạm. Đừng thử chạy file này bởi nó sẽ đòi hỏi bạn chạy trên ổ đĩa mềm.

Vậy bạn sẽ phải làm gì với file này? Có một vài cách có thể để thực hiện tùy thuộc vào cách đóng gói các file của nhà sản xuất:

- Sử dụng WinImage để giải nén chúng, đây là một phần mềm mà bạn có thể dùng thử trong vòng 30 ngày trước khi đăng ký.

- Sử dụng WinRar để giải nén. Trong nhiều trường hợp file này sẽ giải nén ra file *.flp.

- Một vài driver cho phép bạn tự động giải nén vào một thư mục.

Sau đây là danh sách các file mà WinImage có thể điều khiển

Chạy WinImage và mở file, bạn sẽ trông thấy phần nội dung bên trong. Chỉ việc giải nén chúng vào một thư mục, tốt nhất là nên đặt tên thư mục sao cho dễ nhớ.

Tạo một đĩa XP tùy chỉnh

Chúng ta sẽ sử dụng phần mềm có tên gọi nLite để tạo một đĩa cài đặt XP, bạn có thể download phần mềm này tại đây. Cài đặt và khởi chạy chương trình nLite, bạn sẽ nhận được thông báo nạp vào bộ cài đặt Windows, kích vào nút Browse.

Duyệt tới thư mục chứa bộ cài đặt trên ổ đĩa CD, sau đó kích vào OK trên cửa sổ Browse For Folder.

Tiếp theo bạn sẽ nhận được thông báo chỉ ra vị trí muốn lưu lại các file tạm được sử dụng trong suốt quá trình Slip-streaming. Trong ví dụ này, chúng tôi tạo một thư mục mới với tên gọi XPISO nhưng bạn có thể đặt bất kỳ tên gì, chỉ lưu ý một điều nó phải là một thư mục mới.

nLite sẽ copy toàn bộ các file cần thiết cho bộ cài XP vào trong thư mục tạm đã tạo. Sau khi hoàn thành, bạn sẽ trông thấy thông tin về phiên bản Windows XP mà bạn sử dụng.

Nhấn vào nút Next cho đến khi thấy màn hình sau, tại đây bạn có thể chọn các tùy chọn mong muốn. Trong ví dụ này chọn DriversBootable ISO.

Lưu ý: Bạn có thể chọn bất kỳ tùy chọn nào nếu cần. nLite sẽ đóng gói toàn bộ tùy chọn, thiết lập các tác vụ hoặc tự động bỏ đi những các thành phần trong bộ cài đặt, nhưng trong mục đích bài viết này thì chỉ cần chọn 2 tùy chọn trên.

Nhấn Next cho đến khi gặp màn hình lựa chọn các driver. Nếu kích vào nút Insert, bạn có thể chọn giữa việc thêm một driver đơn hoặc một thư mục driver. Trong trường hợp này là thư mục driver mà bạn đã tìm kiếm và giải nén được ở phần trên.

Duyệt tới thư mục chứa các file driver đã được giải nén, sau đó kích Open. Việc lựa chọn file *.inf nào không thực sự quan trọng bởi vì bạn sẽ lựa chọn toàn bộ các file trong thư mục.

nLite sẽ đưa ra thông báo lựa chọn driver. Nếu không biết chính xác driver nào, bạn có thể sử dụng Device Manager trong Vista để tìm chính xác thiết bị hoặc nếu không thì chọn toàn bộ các tùy chọn gợi ý. Chỉ lưu ý một điều là không chọn driver cho hệ thống 64-bit nếu máy tính của bạn là 32-bit hoặc không nên chọn sai phiên bản hệ điều hành.

Bạn nên tìm kiếm các driver cho cả thiết bị lưu trữ và mạng vì những driver này là cần thiết và thường bị thiếu khi cài đặt XP.

Tới đây bạn đã gần như hoàn thiện quá trình tạo đĩa. Giờ chỉ việc chọn ghi trực tiếp vào CD hay chọn Create Image để tạo một file ISO.

Lưu ý: Nếu chọn tạo một file ISO, phải đảm bảo bạn kích vào nút Make ISO trước khi kích Next.

Sau quá trình này bạn đã có một file ISO hoặc 1 đĩa CD để bắt đầu quá trình cài đặt XP.

TH - HT (Theo HowtoGeek)

Nguồn: QuanTriMang

Tìm hiểu về các loại màn hình laptop

Khi mua laptop, người tiêu dùng chỉ hay quan tâm đến các thông số như CPU, RAM, ổ cứng... mà lại ít chú ý đến màn hình, một thành phần rất quan trọng.

http://i396.photobucket.com/albums/pp44/tdmit/ManHinhLaptop.jpg

Tỷ lệ và độ phân giải màn hình

Trước đây, hầu hết màn hình laptop đều chỉ có hai loại “vuông” hoặc “rộng”. Trong thực tế, tỷ lệ màn hình không đơn giản chỉ là “vuông” hay “rộng” mà còn được chia làm nhiều mức khác nhau, tùy vào độ phân giải.

Ví dụ, màn hình 15-inch “vuông” thông thường sẽ có mức phân giải 1024x768 pixel, hoặc 1400x1050 pixel, tương đương tỷ lệ 4:3. Đây là tỷ lệ thông dụng đối với màn hình từ trước tới nay (đặc biệt là với loại màn hình CRT hoặc TV). Màn hình có tỷ lệ độ phân giải 4:3 thường không có ký hiệu W và gồm một số loại thông dụng sau:

Màn hình thường

Màn hình rộng

XGA / 1024x768 / 4:3 WXGA / 1280x768 / 5:3
SXGA / 1280x1024 / 5:4* WXGA / 1280x800 / (16:10)
SXGA+ / 1400x1050 / 4:3 WXGA+ / 1440x900 / (16:10)
UXGA / 1600x1200 / 4:3

WSXGA+ / 1680x1050 / (16:10)


WUXGA / 1920x1200 / (16:10)

Hiện nay, màn hình rộng với tỷ lệ 16:10 hầu như độc chiếm thị trường laptop. Tỷ lệ 16:9 chủ yếu được dùng trong các thiết bị trình chiếu phim ảnh, vì thế nếu bạn xem phim DVD trên laptop có màn hình rộng thì vẫn thấy các dải màu đen ở hai bên khung hình. Bạn cũng cần chú ý rằng màn hình LCD có số điểm ảnh không đổi nên khi card đồ họa xuất độ phân giải thấp, nhiều pixel sẽ phải sử dụng các thuật toán hiển thị khác nhau để “ẩn” bớt đi. Hệ quả tất yếu là hình ảnh sẽ bị mờ đi khá nhiều!

Kích thước màn hình

Nhà sản xuất liệt kê kích thước màn hình theo đường chéo và bằng đơn vị inch. Sau đây là danh sách các loại màn hình thông dụng thường thấy trên laptop:

Tỉ lệ 4:3 thông thường:

• 14" - XGA

• 15" - XGA, SXGA+

Màn hình rộng thông dụng hiện nay:

• 10.6" - WXGA (1280x768)

• 12.1" - WXGA (1280x800)

• 13.3" - WXGA (1280x800)

• 14.1" - WXGA (1280x800)

• 15.4" - WXGA (1280x800), WXGA+, WSXGA+

• 17" - WXGA, WXGA+, WSXGA+, WUXGA

Trong số này, loại màn hình có kích thước tương đương 14.1-inch được ưa chuộng nhất, do sự cân đối giữa tính di động và sự thoải mái khi làm việc. Kích thước 15.4-inch phù hợp với loại laptop được sử dụng cho mục đích thay thế máy để bàn, còn 17-inch hầu như giới hạn người dùng sử dụng ở một số lãnh vực nhất định (thiết kế đồ họa, biên tập phim, chơi game...). Kích thước từ 13.3-inch trở xuống lại rất lý tưởng cho việc di chuyển do rất gọn và mỏng.

Hiện tại, màn hình định dạng rộng gần như chiếm ngôi đầu trên thị trường laptop, nhờ ưu điểm giúp tăng cường khoảng không gian mắt nhìn, trong khi hạn chế tối đa việc tăng cường kích thước thân máy. Về mặt sinh học, mắt người có khoảng nhìn ngang lớn hơn so với khoảng dọc, nên định dạng rộng cũng phù hợp hơn. Thêm vào đó, các trò chơi và ứng dụng hiện đại cũng đã hỗ trợ tích cực cho tỉ lệ 16:10. Các mẫu máy với màn hình 4:3 không còn nhiều, ngoại trừ một số mẫu của Lenovo.

Glossy & Matte: màn hình gương, màn hình nhám mờ

Về hình thức, có hai loại màn hình mà người dùng quen gọi là màn thường (nhám mờ – matte), và màn gương (glossy) - được ưa chuộng hơn.

Muốn biết laptop của bạn đang dùng loại màn hình nào ư?

Rất đơn giản, bởi đúng như tên gọi, màn hình gương rất bóng nhờ lớp bảo vệ được phủ lên lên trên bề mặt hiển thị, nhằm giảm khoảng đen giữa các điểm ảnh, giúp tăng cường độ sáng và độ tương phản (tương ứng với việc thời gian dùng pin lâu hơn, bởi giảm năng lượng cung cấp cho màn hình).

Đáng tiếc là điểm yếu của màn hình gương cũng chính là sự phản quang này. Một số người dùng cho rằng dùng máy tính với màn hình gương gây mỏi mắt hơn so với màn nhám mờ.

Thế nhưng, khi được lựa chọn, đa số người mua đều chọn màn gương (:D), không chỉ vì tác dụng tăng sáng của nó, mà còn bởi vẻ ngoài khá “sành điệu” khi laptop có loại màn hình này.

Màn hình gương cũng có mức giá cao hơn một chút so với loại thường.

Xuất hiện ngay từ khi màn hình LCD ra đời, song tới nay màn hình thường (nhám mờ) vẫn được sử dụng. Với một số người thường xuyên sử dụng laptop, loại màn hình này là lựa chọn hấp dẫn hơn bởi nó không bị phản chiếu ánh sáng như màn gương. Thêm vào đó, những dòng mới nhất có độ tương phản rất tốt, đồng thời giảm được khoảng đen giữa các điểm ảnh. Do vậy, chúng vẫn xuất hiện khá nhiều trong các dòng máy tính đời mới của Apple, hay Dell.

Hoàng Linh

Nguồn: VietnamNet

Các cổng kết nối trên HDTV và thiết bị số thế hệ mới.

Bên cạnh cổng HDMI vốn đã gắn liền với HDTV, còn hàng loạt đường hình và đường tiếng khác mà một HDTV hiện đại hỗ trợ.

Mặc dù tích hợp rất nhiều cổng kết nối, nhưng nếu tìm hiểu, bạn sẽ thấy mỗi một cổng đều có những ưu việt cũng như những hạn chế nhất định của nó. Dù rằng HDMI giờ đã trở thành tiêu chuẩn, nhưng nguồn phát HDMI không phải lúc nào cũng sẵn.

Mặt sau của một TV LCD. Ảnh: Television.
Mặt sau của một TV LCD. Ảnh: Television.


HDMI

Ngoài truyền hình ảnh, chuẩn HDMI còn có khả năng truyền âm thanh và các tín hiệu điều khiển khác. Chính sự đa dạng đó biến HDMI thành một giao diện lý tưởng cho màn hình LCD và Plasma, cũng như các thế hệ máy chiếu tiên tiến hiện nay. Tín hiệu video được truyền nguyên bản dưới dạng kỹ thuật số từ nguồn phát đến màn hình, đem lại chất lượng hình ảnh tốt nhất hiện tại.

Tất cả kết nối HDMI đều có khả năng chống sao chép HDCP, vì thế những màn hình không hỗ trợ chống sao chép sẽ không hiện thị được hình ảnh ngoài một màn hình nhiễu. Cổng HDMI cũng có tính tương thích ngược với tiền thân của nó là DVI (phải qua adapter), tuy nhiên, chuẩn DVI không hỗ trợ audio, nên nếu dùng adapter giữa HDMI và DVI, chỉ có hình ảnh được hiển thị với chất lượng tương đương, còn âm thanh sẽ bị loại bỏ.

Dạng tín hiệu: Số.

Độ phân giải tối đa: 1080p.

Kết nối Component

Cổng video component đại diện bằng ba giắc tròn có ba màu khác nhau. Hai giắc dùng để truyền tín hiệu màu, còn giắc còn lại mang tín hiệu về độ sáng tối.

Mặc dù là kết nối dạng analog nhưng cổng component cho chất lượng hình ảnh rất chính xác với khả năng tái tạo màu chuẩn và giảm thiểu giao thoa giữa các tín hiệu thành phần (vốn là một hạn chế trên các cổng S-video và Composit). Nếu như bạn chưa có nguồn HDMI hay đơn giản là chưa có cáp HDMI, thì đây là một sự thay thế hoàn hảo nhất.

Dạng tín hiệu: Analog.

Độ phân giải tối đa: 1080p (nhưng hầu hết đầu video chỉ truyền tín hiệu 1080i qua cổng component này).

Scart

Cổng Scart là đặc trưng riêng của châu Âu, thường thấy trên các màn hình có xuất xứ từ (hoặc nhằm hướng tới) thị trường này. Chuẩn cho phép kết nối rất nhiều thiết bị nguồn phát mà chỉ sử dụng một cổng đơn nhất. Chuẩn Scart có thể truyền tải rất nhiều dạng tín hiệu: RGB, S-Video và Composit qua các adapter. Tuy nhiên, nếu có thể, bạn nên lựa chọn sử dụng tín hiệu RGB bởi nó cho chất lượng hình ảnh tốt nhất.

Bên cạnh truyền tải tín hiệu hình ảnh, cổng Scart còn có những dây riêng dùng cho tín hiệu âm thanh dạng stereo. Thêm nữa, nó còn có thể thêm một cáp nguồn, cho phép các thiết bị video khác như đầu ghi video tự động mở TV khi thiết bị này được bật.

Dạng tín hiệu: Analog.

Độ phân giải tối đa: 576i.

Cổng Component. Ảnh: Akamaipix.
Cổng Component. Ảnh: Akamaipix.


S-Video

Kết nối này sử dụng các đường tín hiệu riêng nhau để truyền tải thông tin về màu sắc và sáng tối riêng rẽ, tránh tối đa hiện tượng lỗi hình ảnh. Đình đám một thời bời thiết kế gọn nhẹ và chất lượng tốt, cổng S-Video cho chất lượng hình ảnh tốt hơn Composit nhưng vẫn chưa thể cạnh tranh được với chất lượng của cổng Component.

Cổng S-Video đôi khi còn được gọi là Y/C Video, viết tắt của thành phần độ sáng tối (luma_Y) và màu sắc (chroma_C) - bản chất kỹ thuật của nó.

Dạng tín hiệu: Analog.

Độ phân giải tối đa: 576i.

Composite Video

Cổng kết nối hình ảnh thông dụng nhất trên tất cả các thiết bị từ cổ chí kim là cổng Composit (giắc tròn màu vàng) với tuổi thọ đã lên tới 20 năm. Chất lượng hình ảnh của nó kém hơn so với S-Video do chỉ sử dụng một tín hiệu duy nhất để truyền tải các thông tin màu sắc, hình ảnh, blanking (khoảng mất tín hiệu, vốn đặc trưng bởi hệ thống TV quét hình thời xưa) và đồng bộ. Vì thế, đôi khi cổng Composit còn được gọi là CVBS (color, video, blank, sync).

Dạng tín hiệu: analog.

Độ phân giải tối đa: 576i.

RF (cổng ăng-ten)

Cổng RF, hay thường gọi là cổng ăng-ten, cổng cáp, do được dùng để tiếp sóng ăng-ten tần số cao hay tín hiệu cáp rồi truyền vào bộ giải mã TV. RF là viết tắt của Radio Frequency (tần số sóng vô tuyến), có khả năng truyền tải một vài kênh hình ảnh với âm thanh stereo trên một đường tín hiệu UHF (tần số siêu cao_ultra high frequency). Nếu như nhà bạn vẫn có những TV hay đầu đọc cổ xưa, bạn có thể thấy cổng này truyền tải hình và tiếng thông qua việc dò sóng y như dò sóng truyền hình.

TV LCD giờ có đa dạng cổng kết nối. Ảnh: Trustedreviews.
TV LCD giờ có đa dạng cổng kết nối. Ảnh: Trustedreviews.


S/PDIF (quang/đồngtrục)

Cổng kết nối đường tiếng này (hoặc dưới dạng cổng quang, hoặc dưới dạng cổng đồng trục) truyền tải âm thanh dạng số với chất lượng cao nhất có thể, từ TV tới dàn A/V Receiver. Với số lượng các kênh chiếu phim hỗ trợ âm thanh Dolby Digital ngày một nhiều, để thưởng thức âm thanh chất lượng cao, bạn phải nối TV ra dàn A/V Receiver và ra loa ngoài qua cổng này thì mới tận hưởng hết chất lượng.

Audio Stereo

Cổng này truyền âm thanh từ các nguồn phát analog tới TV với hai giắc đại diện cho các kênh trái, phải (left/right - L/R) hỗ trợ âm thanh stereo. Bên cạnh đường ra L/R trên TV, dùng để nối với ampli, TV còn có thêm giắc cắm headphone với dạng cổng stereo truyền thống. Một số các nhà sản xuất LCD như LG lại tích hợp sẵn module truyền âm thanh không dây qua Blue-tooth trên các thế hệ TV mới của mình, vì thế người dùng thay vì cắm vào giắc headphone, có thể tận hưởng âm nhạc stereo với tai nghe không dây.

VGA

Với cố gắng trở thành trung tâm giải trí tại gia, màn HDTV hiện tại đều tích hợp thêm cổng VGA để kết nối với máy tính. Không giống như tín hiệu hình ảnh số trên HDMI và DVI, tín hiệu hình ảnh của VGA là analog. Độ phân giải của cổng này cũng không tệ và nhưng phụ thuộc vào thiết bị được gắn là gì.

Cổng mạng (Ethernet)

Các thế hệ TV đời mới ngày nay còn có thể dùng cổng này vào mạng Internet truy cập nội dung hay mạng gia đình DLNA để truyền tải phim ảnh. Một số nhà sản xuất như Samsung và Philips còn tiến xa hơn bằng việc thay cổng Ethernet thông thường bằng kết nối mạng không dây (WLAN).

DMPORT (cổng đặc trưng của nhà sản xuất)

Một số nhà sản xuất thích tích hợp những cổng giao tiếp đặc biệt trên màn hình để kết nối với các thiết bị ngoại vi khác. Chẳng hạn với TV Sony, bạn có thể thay thêm một cổng DMPort không giống ai, chuyên dùng để nối với các module lắp thêm như Bluetooth adapter hay đế cho iPod/Walkman.

Ảnh một số cổng kết nối trên các thiết bị số

http://i396.photobucket.com/albums/pp44/tdmit/PanasonicVieraPY850.jpg

Các cổng kết nối trên Tivi Panasonic Viera PY850

http://i396.photobucket.com/albums/pp44/tdmit/MayAnhPentaxK-7.jpg

Cổng kết nối trên máy ảnh quay phim HD Pentax K-7

http://i396.photobucket.com/albums/pp44/tdmit/HDPlayerHDX-1000.jpg

Cổng kết nối trên HD Player HDX-1000

http://i396.photobucket.com/albums/pp44/tdmit/Sony_Bravia_1.jpg

Cổng kết nối trên Sony Bravia KLV-46X350A


Nguyễn Hà (theo Televisions)

Nguồn: Theo VnExpress.net

Tìm hiểu về HDMI

HDMI mới nhưng đơn giản ở chỗ: truyền tải cả âm thanh, hình ảnh chất lượng cao và chất lượng này không phụ thuộc vào giá tiền mua cáp.

Chỉ trong vòng vài năm, HDMI đã trở thành chuẩn kết nối audio và video chất lượng cao thông dụng. Giờ đây thế hệ HDTV mới nào cũng đều có ít nhất hai cổng HDMI, còn các thiết bị đọc như đầu DVD, đầu ghi DVD, đầu Blu-ray hay các máy chơi game, thậm chí cả máy tính đều tích hợp cổng xuất HDMI cho đường hình và tiếng. Với chỉ một sợi cáp truyền tải cả âm thanh và hình ảnh, HDMI đã làm cho thao tác kết nối trong hệ thống rạp hát tại gia trở nên đơn giản hơn nhiều. Tuy nhiên, các chuẩn HDMI 1.2, HDMI 1.3, hay tính năng hỗ trợ Deep Color cũng như sự chênh lệch giá giữa các loại cáp không khỏi gây mơ hồ cho đại bộ phận người dùng, đẩy họ quay về với những dạng cáp kết nối analog đơn giản hơn hoặc ít ra họ biết hơn.

Cáp HDMI là một chuẩn kết nối kỹ thuật số có khả năng truyền tải video HD cũng như âm thanh chất lượng cao trên cùng một sợi cáp. Ảnh: Upandruningdenver.
Cáp HDMI là một chuẩn kết nối kỹ thuật số có khả năng truyền tải video HD cũng như âm thanh chất lượng cao trên cùng một sợi cáp. Ảnh: Upandruningdenver.


HDMI là gì?

HDMI là các chữ cái viết tắt của Giao diện đa phương tiện phân giải cao (High-Definition Multimedia Interface). Về cơ bản, HDMI là một chuẩn kết nối kỹ thuật số có khả năng truyền tải video HD cũng như âm thanh chất lượng cao trên cùng một sợi cáp. Trước đây, để có thể truyền tải các nội dung tương tự trên cáp analog, người ta phải dùng đến 3 cáp kết nối video (cổng component) cộng thêm với 6 cáp âm thanh analog nữa.

HDMI được dùng chủ yếu cho những kết nối tới các thiết bị cần độ phân giải cao như đầu ghi DVD HD hay HDTV. Thao tác kết nối rất đơn giản, bạn cắm một đầu cáp vào cổng HDMI Input ở HDTV, còn đầu kia cắm vào cổng HDMI trên đầu ghi/đầu đọc. Còn nếu như bạn lại có thêm một bộ AV Receiver, thì bạn chỉ việc đặt bộ Reveeiver này vào giữa hệ thống kết nối. Nghĩa là đầu HDMI ra của Receiver sẽ cắm tới HDTV, còn đầu vào HDMI của Receiver sẽ cắm tới các thiết bị HD khác.

HDMI ưu thế hơn so với các cáp khác như thế nào?

Chuẩn HDMI cho phép truyền tải với chất lượng hình ảnh tốt hơn bất cứ chuẩn cáp thông dụng nào hiện nay. HDMI cho phép băng thông đủ cho video HD với độ phân giải 1080p và tốc độ 60 khung hình/giây, băng thông cao nhất cho định dạng video hiện nay.

Mặc dù tính về hình ảnh, chuẩn DVI trên máy tính thực ra cũng có khả năng truyền tải với chất lượng tương đương, nhưng vấn đề là chuẩn này lại không thông dụng trên HDTV cũng như các thiết bị phát HD hiện nay.

Còn chuẩn Component thì mặc dù rất thông dụng trên các TV cũng như đầu phát HD và các thiết bị khác, nhưng chất lượng hình ảnh lại không bằng được HDMI, dù rằng việc tìm ra sự khác biệt này cũng không phải dễ dàng gì.

So với các cổng video quen thuộc đời trước như S-video, cổng composit (giắc video màu vàng) hay cổng RF thì HDMI là một bước cải thiện vượt bậc. Tuy nhiên, chất lượng video thực chất lại nằm ở nguồn phát. Vì thế mà nếu nguồn phát chất lượng thấp thì có truyền bằng cổng HDMI cũng sẽ cho ra hình ảnh tệ hơn là một nguồn phát video chất lượng cao truyền qua cổng S-video.

Đối với âm thanh, chuẩn HDMI cũng thuộc hàng top khi nó hỗ trợ tới 8 kênh tiếng 24-bit ở 192 Hz, thừa đủ cho những hệ thống âm thanh chất lượng cao nhất như Dolby TrueHD và DTS-HD Master Audio. Để có thể có được một chất lượng âm thanh tương tự như vậy, bạn cần chạy tới 8 cáp âm thanh analog đa kênh. Còn các cổng âm thanh số như cổng quang hay đồng trục, số kênh có thể tương đương, nhưng độ phân giải tín hiệu sẽ bị giới hạn ở mức thấp hơn.

Cổng HDMI trên HDTV. Ảnh: HDTVtest.
Cổng HDMI trên HDTV. Ảnh: HDTVtest.


Cổng HDMI được dùng trên các thiết bị nào?

Cũng tương tự như cổng USB, cổng HDMI cũng có dạng miniHDMI bé hơn thường thấy trên các máy quay phim HD. Chất lượng trên cổng này hoàn toàn tương đương như với cổng HDMI thông thường, dù kích thước có bé hơn. Để kết nối, bạn phải dùng tới cáp mà một đầu là cổng thường, mọt đầu là cổng mini, hoặc dùng một cáp thường và thêm một adapter chuyển đổi từ HDMI sang miniHDMI.

Mặc dù chuẩn DVI đã tạo dựng được chỗ đứng trên các dòng máy tính để bàn, nhưng hiện giờ các thế hệ máy để bàn mới cũng như card màn hình mới đang dần chuyển sang xu hướng tích hợp thêm cổng HDMI. Nhưng dù có như vậy, chuẩn này quả thật vẫn còn phải đi một quãng đường dài vì không như tình trạng không đối thủ ở hệ thống rạp hát tại gia. Trong trường giải trí máy tính, chuẩn HDMI phải đối mặt với những đối thủ không kém phần ưu việt, như DisplayPort có thể ra mắt trong năm nay và UDI sẽ sớm có mặt trên thị trường.

Cáp đắt tiền không xứng với giá của nó

Bạn có thể vào bất cứ cửa hàng điện tử nào và mua một sợi cáp HDMI. Đừng bị người bán hàng phỉnh nịnh để bỏ thêm tiền để mua những cáp HDMI được quảng cáo là chất lượng cao hơn, tốc độ nhanh hơn đi kèm với giá tiền cắt cổ. Nói chung, chỉ cần một sợi với giá dưới 35 USD với độ dài 1 mét là đủ. Sự khác nhau giữa một sợi cáp HDMI giá 35 USD với một sợi giá tới 140 USD không mang lại ý nghĩa gì cả, bởi thông tin số được truyền tải trên chúng hoàn toàn như nhau, không sợi nào có thể khiến cho hình ảnh trở nên đẹp hơn cả.

Rất nhiều loại cáp của đủ các hãng nổi tiếng đều đã được các chuyên gia âm thanh sử dụng, như Belkin, Accell, Monoprice, Monster hay SimplayHD nhưng không thấy được sự khác biệt đáng kể nào về chất lượng. Chỉ với một sợi cáp bình thường và một kết nối chắc chắn, thử nghiệm cho thấy không hề có hiện tượng mất hình hay nháy hình. Chỉ đơn giản là hình ảnh và âm thanh vẫn giữ chất lượng cao, chắc và đáng tin cậy.

Biên tập viên trên trang công nghệ Cnet đảm bảo rằng các cáp HDMI rẻ tiền vẫn đem lại chất lượng hình ảnh xuất sắc. Phòng lab chuyên đánh giá các bộ rạp hát tại gia của họ chỉ sử dụng những sợi cáp bình thường, như cáp Monoprice hay thậm chí là những hãng bình dân khác với tần suất rút ra cắm vào liên tục mỗi khi thử nghiệm bộ mới và với chiều dài đa dạng, từ 1 tới 5 mét hay thậm chí tới 7 mét mà âm thanh hình ảnh đều không có vấn đề gì về suy hao chất lượng. Với những sợi cáp bình dân mà chất lượng của nó còn được các chuyên gia đánh giá âm thanh hình ảnh chấp nhận được thì không có lý gì lại không đủ phục vụ cho nhu cầu nghe nhìn đơn giản tại gia.

HDMI chuẩn 1.3. Ảnh: Silversonic.
HDMI chuẩn 1.3. Ảnh: Silversonic.


Các phiên bản HDMI

Một trong những thông số gây hoang mang nhất của chuẩn HDMI chính là các phiên bản khác nhau của nó. Trong khi phần lớn các thiết bị đời mới hỗ trợ chuẩn 1.3 thì ở một số thiết bị đời cũ chỉ hỗ trợ chuẩn 1.2 cũ hơn. Đã có quá nhiều thông tin về chuẩn HDMI 1.3 và những lợi thế băng thông mà nó mang lại, và thực tế quả cũng vậy. Chuẩn mới hỗ trợ "Deep Color", một tính năng cho phép hỗ trợ một gam màu rộng lớn hơn. Tuy nhiên, tính năng này mới chỉ dừng ở một số máy quay HD chứ chưa được sử dụng rộng rãi trên các thiết bị HD khác, ngay cả đầu Blu-ray. Chuẩn HDMI 1.3 cũng cho phép tính năng tự động chỉnh khớp lời thoại dù rằng các tính năng khớp lời thoại vốn có trên chuẩn cũ cũng không có vấn đề gì.

Nâng cấp quan trọng của chuẩn 1.3 là nó cho phép truyền thẳng âm thanh chất lượng cao như Dolby TrueHD và DTS-HD Master Audio dưới dạng bitstream. Cũng với soundtrack chất lượng cao này, các phiên bản HDMI chỉ có thể truyền tải nếu như nó được chuyển sang định dạng PCM trước. Tuy nhiên, tính năng nay có vẻ như sẽ ít vai trò dần bởi lẽ đầu Blu-ray thế hệ mới tích hợp giải mã cho tất cả sountrack chất lượng cao sẽ sớm có mặt trên thị trường.

Một điểm đáng lưu ý đối với chuẩn HDMI 1.3 là không đảm bảo hỗ trợ bất kỳ tính năng nào nói trên, từ Deep Color, tự động khớp lời thoại tới hỗ trợ truyền âm thanh bitstream. Tất cả đều là những tính năng mà nhà sản xuất có thể lựa chọn để tích hợp. Nói cách khác, người mua nên tập trung vào việc thiết bị HD có những tính năng nào thay vì chú trọng việc nó hỗ trợ phiên bản HDMI nào. Thêm vào đó, theo lời người phát ngôn của chuẩn HDMI, 98% cáp HDMI tương thích tốt với chuẩn HDMI 1.3. Vì thế, không lý do gì lại phải bỏ thêm tiền mua một sợi cáp chuyên dụng hỗ trợ phiên bản 1.3.

Tháng 5 vừa rồi chuẩn HDMI 1.4 đã được công bố. Chuẩn này thêm vào nhiều tính năng mới hữu ích như HDMI Ethernet cho phép kết nối mạng và Audio Return Channels cho phép truyền âm thanh hai chiều. Về mặt chất lượng hình ảnh, HDMI 1.4 đã sẵn sàng cho 3-D và có thể hỗ trợ tới độ phân giải 4.096 x 2.160 pixel với độ sâu màu cải thiện hơn. Cuối cùng là một cổng kết nối microHDMI hỗ trợ cho kết nối tới điện thoại di động hay máy ảnh... Các thiết bị hỗ trợ chuẩn này dự kiến sẽ ra mắt thị trường vào năm sau.

Cáp HDMI chạy được bao xa?

Cũng như các loại cáp khác, tín hiệu trên cáp HDMI cũng sẽ bị suy hao theo chiều dài chạy cáp. Mặc dù nhóm phát triển HDMI không công bố con số chính thức về độ dài tối đa cho phép của cáp này, nhưng họ gián tiếp đề cập đến việc ngoài 10 mét chất lượng có thể bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, qua thực tế sử dụng, những sợi cáp HDMI Accell dài tới 21 mét tại Phòng thử nghiệm của Cnet hay những sợi cáp HDMI Monoprice dài tới 25 mét cũng được người tiêu dùng đánh giá cao. Thực chất, chất lượng cáp không phải là yếu tố duy nhất. Bản thân cổng xuất HDMI trên thiết bị và cổng HDMI input trên HDTV cũng có ảnh hưởng nhất định đến chất lượng tín hiệu truyền trên đường dây. Vì thế tốt nhất người dùng tự đánh giá về tương quan chất lượng/độ dài của cáp trong hệ thống của mình.

HDMI switch. Ảnh: Futurelooks.
HDMI switch. Ảnh: Futurelooks.


HDMI switch

Với ngày càng nhiều thiết bị hỗ trợ cổng HDMI trong khi số lượng cổng HDMI Input của HDTV thì có hạn, người dùng có thể tính đến việc dùng HDMI Switch mà không phải mua thêm màn HDTV. Với cấu hình đơn giản, tất cả việc cần làm chỉ là kết nối cáp từ thiết bị tới switch và kết nối đầu ra của switch tới HDTV. Hầu hết các bộ HDMI Switch đều đi kèm với một điều khiển từ xa hồng ngoại, vì thế người dùng có thể chuyển đổi qua lại giữa các cổng một cách dễ dàng.

HDCP là gì

HDCP là viết tắt của công nghệ bảo mật nội dung số băng thông cao (High-bandwidth Digital Content Protection), cho phép cơ chế bảo vệ bản quyền trên các thiết bị sử dụng HDMI. Khi hai thiết bị được kết nối qua cổng HDMI, HDCP yêu cầu các thết bị này phải "bắt tay" nhau liên tục hay phải xác nhận rằng đây là hai thiết bị hợp pháp. Bảo vệ bản quyền vốn rất được các công ty đa phương tiện như các phòng chiếu phim chú trọng, nhằm tránh việc sao chép trái phép phim ảnh và các chương trình TV.

Nếu đọc xong mà bạn vẫn còn mơ hồ về chuẩn này, thì ít nhất cũng chỉ cần nhớ thông tin vô dùng đơn giản. Đó là: "Không có lý do gì để cố bỏ tiền ra mua những sợi cáp HDMI đắt đỏ nếu như bạn có thể mua được loại rẻ hơn".

Nguyễn Hà (theo Cnet)

Nguồn: VnExpress.net

Chuyển DHCP từ Windows NT 4.0, Windows Server 2000, Windows Server 2003 sang Windows Server 2008

Những phiên bản mới luôn tích hợp nhiều công cụ và cải tiến nhiều tính năng hỗ trợ cho người dùng. Và Windows Server 2008 cũng không phải là ngoại lệ. Nhưng với nhiều người dùng đã sử dụng các phiên bản dành cho máy chủ trước đó như Windows NT 4.0, Windows Server 2000 hay Windows 2003 lại ngần ngại khi chuyển sang phiên bản này vì cơ ở dữ liệu DHCP khá đồ sộ.

Bài viết này sẽ hướng dẫn các bạn phương pháp chuyển một cơ sở dữ liệu Dynamic Host Configuration Protocol (DHCP – Giao thức cấu hình máy chủ động) từ một hệ thống đang sử dụng phiên bản Microsoft Windows NT Server 4.0 hay Microsoft Windows 2000 tới một hệ thống sử dụng hệ điều hành Windows Server 2008.
Lưu ý: Bạn có thể sử dụng tiện ích backup của Microsoft Windows (ntbackup.exe) để sao lưu và khôi phục cơ sở dữ liệu DHCP trên một máy chủ riêng lẻ. Không nên sử dụng tiện ích backup để chuyển cơ sở dữ liệu DHCP từ một máy chủ DHCP sang một máy chủ khác.

Kết xuất cơ sở dữ liệu DHCP từ một máy chủ sử dụng Windows NT Server 4.0 hay Windows 2000

1. Tắt dịch vụ DHCP Server trên máy chủ

a. Đăng nhập vào máy chủ DHCP nguồn bằng tài khoản thành viên của nhóm quản trị.

b. Sau đó click vào Start | Run và nhập lệnh cmd trong hộp Open và click OK để mở Command Prompt.

c. Trong cửa sổ Conmmand Prompt, nhập lệnh net stop dhcpserver rồi nhấn Enter. Khi đó một thông báo sẽ hiện ra với nội dung "The Microsoft DHCP Server service is stopping. The Microsoft DHCP Server service was stopped successfully" (Dịch vụ Microsoft DHCP Server đang tắt. Dịch vụ Microsoft DHCP Server đã được tắt thành công).

d. Sau đó nhập tiếp lệnh exit để đóng Command Prompt.

2. Nén cơ sở dữ liệu DHCP bằng tiện ích JetPack

  • Vào Start | Run rồi nhập cmd vào hộp Open và click OK.
  • Tại cửa sổ Command Prompt, nhập cd %systemroot%\system32\dhcp. Nhấn Enter.
  • Nhập tiếp lệnh jetpack dhcp.mdb temp.mdb. Nhấn Enter.
  • Sau khi cơ sở dữ liệu này được nén thành công, nhập lệnh exit để thoát khỏi Command Prompt.

3. Xuất cơ sở dữ liệu DHCP

Xuất cơ sở dữ liệu DHCP này bằng tiện ích DHCP Export Import (dhcpexim.exe). Bạn có thể sử dụng tiện ích này trong Windows 2000 Resource Kit Supplement 1, hoặc có thể tải tiện ích này tại đây.

Để xuất cơ sở dữ liệu DHCP bạn thực hiện các thao tác sau:

  • Cài đặt tiện ích dhcpexim.exe sau đó khởi chạy tiện ích này.
  • Tại màn hình Welcome to DHCP Export Import Tool, click vào mục Export configuration of the local service to a file (Xuất cấu hình dịch vụ cục bộ sang một file) và click OK.
  • Trong hộp File name, nhập tên cho file xuất ra, và click Save. Ví dụ nhập tên file là dhcpdatabase.txt.
  • Click vào vùng hay một số vùng bạn muốn kết xuất và click chọn hộp chọn Disable the selected scopes on local machine before export (Hủy bỏ những vùng được lựa chọn trên máy cục bộ trước khi kết xuất), rồi click Export.
  • Thực hiện xong nhấn OK.

4. Tắt dịch vụ DHCP Server trên máy chủ

Việc tắt dịch vụ DHCP trên máy chủ sẽ chặn không cho dịch vụ này khởi chạy sau khi cơ sở dữ liệu đã được truyền đi. Thực hiện các thao tác sau để tắt dịch vụ DHCP Server:

  • Vào Start | Settings | Control Panel | Services.
  • Trong danh sách dịch vụ chọn Microsoft DHCP Server | Start up rồi chọn Disabled. Sau đó nhấn OK.
  • Nếu dịch vụ này đang được chạy, click vào Stop, sau đó click Yes để xác nhận tắt dịch vụ.
  • Thực hiện xong click Close để đóng cửa sổ Services.
  • Tiện ích dhcpexim.exe rất cần thiết trong việc di chuyển cơ sở dữ liệu DHCP từ máy chủ sử dụng Windows 2000 tới một máy chủ sử dụng Windows Server 2008. Lệnh netsh cho DHCP không được tích hợp trên Windows NT 4.0.

Lưu ý: Nếu chỉ cần đến những file cấu hình, sử dụng lệnh sau (thay vì tiện ích dhcpexim.exe) trên máy chủ nền tảng Windows 2000 muốn kết xuất ra. (không nên sử dụng dhcpexim.exe).

netsh dhcp dump > C:\dhcp.txt

Trong đó C:\dhcp.exe là tên và đường dẫn file xuất ra.

Lưu ý: Lệnh netsh trên máy chủ Windows 2000 không có tùy chọn xuất. Lệnh netsh dhcp server dumpnetsh dhcp server import là không tương thích. Nếu cố gắng nhập dữ liệu được tạo bởi netsh dhcp server dump > C:\dhcp.txt sử dụng netsh DHCP server import > C:\dhcp.txt bạn sẽ nhận được thông báo lỗi sau trên hệ thống Windows Server 2008:

The request is not supported (Yêu cầu này không được hỗ trợ).

Bạn có thể chuyển file cấu hình được kết xuất tới một máy chủ Windows Server 2008 mới với lệnh netsh exec c:\dhcp.txt.

Cài đặt dịch vụ DHCP Server trên máy chủ Windows Server 2008

Để cài đặt dịch vụ DHCP Server trên một hệ thống hiện cài đặt Windows Server 2008 bạn hãy thực hiện các thao tác sau:

  • Vào Start | All Program | Administrative Tools | Server Manager.
  • Trong cây Console của Server Manager, phải chuột lên Roles chọn Add Roles.
  • Add Roles Wizard xuất hiện, click Next.
  • Trên trang Select Server Roles, click chọn vào hộp chọn DHCP Server. Sau đó click Next.
  • Kiểm tra thông tin trên trang Introduction to DHCP Server, rồi click Next.
  • Sau đó làm theo hướng dẫn của Add Roles Wizard để hoàn thành cài đặt.

Nhập cơ sở dữ liệu DHCP

Lưu ý: Nếu không phải là thành viên của nhóm Backup Operator, có thể bạn sẽ nhận được thông báo Access denied (từ chối truy cập) khi thực hiện các thao tác này. Còn nếu nhận được thông báo lỗi Unable to determine the DHCP server version for server (Không thể kiểm tra phiên bản máy chủ DHCP cho máy chủ), bạn hãy kiểm tra lại xem dịch vụ DHCP Server có được chạy trên máy chủ và tài khoản đăng nhập có phải là thành viên nhóm quản trị cục bộ hay không.

Quan trọng: Không sử dụng dhcpexim.exe để nhập một cơ ở dữ liệu DHCP vào Windows Server 2008. Ngoài ra, nếu máy chủ Windows 2008 đích là một máy chủ thành viên, và nếu có dự định cải tiến nó thành một trình quản lý miền, thì bạn nên chuyển cơ sở dữ liệu DHCP trước khi cải tiến nó thành một trình điều khiển miền. Dù bạn có thể chuyển cơ sở dữ liệu DHCP thành một trình quản lý miền Windows 2008, nhưng quá trình chuyển tới một máy chủ thành viên sẽ dễ dàng hơn rất nhiều nhờ sự xuất hiện của tài khoản quản trị cục bộ.

  • Trước tiên đăng nhập như một người dùng thành viên của nhóm quản trị. Một tài khoản người dùng trong nhóm mà một thành viên của nhóm quản trị cục bộ sẽ không phát huy tác dụng. Nếu một tài khoản quản trị cục bộ không tồn tại cho trình quản lý miền, hãy khởi động lại hệ thống trong chế độ Directory Services Restore Mode và sử dụng tài khoản quản trị để nhập cơ sở dữ liệu này.

  • Copy file cơ sở dữ liệu DHCP kết xuất vào đĩa cứng cục bộ của hệ thống Windows Server 2008.

  • Khởi chạy dịch vụ DHCP được khởi chạy trên hệ thống Windows Server 2008.

  • Click vào Start | Run, nhập cmd vào hộp Open và click OK.

  • Trong Command Prompt, nhập netsh dhcp server import c:\dhcpdatabase.txt all, và nhấn Enter. Trong đó c:\dhcpdatabase.txt là đường dẫn đầy đủ và tên file cơ sở dữ liệu đã được copy lên máy chủ.

    Chú ý: Khi xuất cơ sở dữ liệu DHCP từ trình quản lý miền Windows 2000 tới miền của máy chủ thành viên Windows Server 2008 có thể sẽ có một thông báo lỗi sau:

    Error initializing and reading the service configuration – Acess Denied
    (Lỗi phân tích và đọc cấu hình dịch vụ - Truy cập bị từ chối).

    Khi đó bạn phải có quyền quản trị cục bộ để nhập dữ liệu.

  • Để khắc phục lỗi này, bổ sung hệ thống máy chủ Windows Server 2008 DHCP vào nhóm quản trị DHCP ở cấp Enterprise.

  • Nếu nhận được thông báo Access is denied (truy cập bị từ chối) sau khi bổ sung máy chủ Windows Server 2008 DHCP vào nhóm quản trị DHCP cấp Enterprise được nhắc tới trong bước 4, chắc chắn rằng tài khoản người dùng đang được sử dụng để để nhập cơ sở dữ liệu là thành viên của nhóm quản trị. Nếu không, hãy bổ sung tài khoản đó vào nhóm hay đang nhập dưới quyền quản trị cục bộ để hoàn thành quá trình nhập.

  • Sau khi nhận thông báo cho biết lệnh đó đã được thực hiện thành công, bạn hãy thoát khỏi Command Prompt.

Cấp phép máy chủ DHCP

  • Vào Start | All Program | Administrative Tools | DHCP.

Lưu ý: Bạn phải đang nhập vào máy chủ này bằng tài khoản thành viên của nhóm quản trị. Trong miền Active Directory, bạn phải được đăng nhập vào máy chủ bằng tài khoản thành viên của nhóm Enterprise Administrator.

  • Trong cây Console của Snap-in DHCP, mở rộng máy chủ DHCP mới. Nếu có một mũi tên màu đỏ ở góc dưới bên phải của Server Object thì máy chủ này vẫn chưa được phân quyền.
  • Phải chuột vào Server Object chọn Authorize.
  • Đợi khoảng vài phút rồi phải chuột lại lên Server Object và click Refresh. Khi một mũi tên xanh xuất hiện là máy chủ DHCP của bạn đã được phân quyền.
Xian (Theo TechNet)
Nguồn: QuanTriMang